Kim
Thành là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng, trong lịch sử vùng Đũa Sơn
(Nhà Đũa) được tướng Đinh Lễ (một vị tướng của Lê Lợi) chọn là nơi đặt đại bản
doanh để bổ sung quân lương, luyện tập binh lính chuẩn bị lực lượng để đánh
Thành Trài (Diễn Châu) vào thế kỷ XV. Vùng Đồn
Thông cũng là nơi được Nguyễn Xuân Ôn (nghè Ôn) chọn làm nơi tổ chức rèn đúc vũ
khí, luyện tập binh lính và chuẩn bị quân lương phục vụ cho cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp thế kỷ XIX.
Xã Kim
Thành chính thực được thành lập năm 1999 theo Nghị
định 44/CP ngày 01/7/1999, trên cơ sở 2.300 ha diện tích tự nhiên và 4.150
nhân khẩu của xã Đồng Thành. Tuy mới được thành lập nhưng dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân đã phát huy truyền thống cần cù, chịu thương,
chịu khó biến vùng đất này thành những vùng sản xuất nông nghiệp, trồng cây ăn
quả, trồng rừng xanh tốt. Cơ sở vật chất khang trang, đảm bảo nhu cầu sinh
hoạt cho nhân dân. Đặc biệt, năm 2019, xã hoàn thành mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới.
I. ĐẶC ĐIỆM TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý, địa hình
Kim
Thành là xã miền núi nằm về phía Tây Bắc huyện Yên Thành. Phía Đông giáp xã
Phúc Thành, Hùng Thành; phía Tây giáp xã Quang Thành; phía Nam giáp xã Đồng
Thành; phía Bắc giáp xã Lăng Thành và xã Nghĩa Dũng (huyện Tân Kỳ). Xã có tổng
diện tích tự nhiên là 2.397,99 ha.
Xã Kim
Thành có địa hình lòng chảo, bao bọc xung quanh là núi cao, ở giữa là thung
lũng thấp. Vùng đồi núi cao gồm các dãy: Động Huyệt (cao 301m), Động Nhạn (cao
237 m). Ngoài ra, xã còn có một số dãy núi thấp khác nằm rải rác trên địa bàn.
Vùng
thung lũng là những cánh đồng nhỏ hẹp rải rác dười chân núi, đồi. Đây là diện
tích chủ yếu để nhân dân sản xuất nông nghiệp đặc biệt là trồng lúa.
Kim
Thành không có sông nhưng do diện tích đồi núi nhiều nên nhân dân đã biết ngăn dòng
chảy từ các con khe thành hồ đập để dự trữ nước tưới phục vụ sản xuất. Hiện
nay, trên địa bàn xã có 17 hồ đập lớn nhỏ, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu nước tưới
tiêu cho các cánh đồng.
2. Khí hậu
Kim
Thành nằm trong vùng khí hậu Bắc Trung bộ mang đặc điểm chung
là nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,60C.
Số giờ nắng trong năm từ 1.580 - 1.600 giờ. Độ ẩm là 80%. Lượng mưa trung bình
1.600 mm. Mỗi năm xã có hai mùa rõ rệt: Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng
10, nhiệt độ cao nhất lên 400C, tập trung vào tháng 6, 7. Trong mùa này có gió
Tây Nam (gió Lào) thổi từ dãy Trường Sơn xuống gây khô nóng, làm cho ao hồ, đập
khô cạn, cây cối héo khô. Từ tháng 8 đến tháng 10 thường có mưa bão gây khó
khăn trong việc sinh hoạt và sản xuất cho nhân dân.
Mùa
lạnh bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa này có gió mùa Đông Bắc gây
rét, nhiệt độ xuống thấp khoảng 5 - 70C, có mưa phùn rải rác cũng ảnh hưởng lớn
đến đời sống của nhân dân.
3. Tài nguyên
Là một
xã vùng núi nên Kim Thành có nguồn tài nguyên khá phong phú. Đất đai phân bổ
trên nhiều dạng địa hình khác nhau nên có đặc điểm khác nhau. Trong đó gồm các
loại đất chính là: Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá phiến sét với
1.070,89 ha tập trung chủ yếu ở các giãy núi cao; đất Feralit đỏ vàng bị xói
mòn có 230 ha tập trung ở các đồi núi; đất phù sa ngòi suối có 460,41 ha; đất
dốc tụ có 310,7 ha và có 219,23 đất khác. Với nhiều loại đất khác nhau đã tạo
điều kiện thuận lợi để xã phát triển kinh tế đa giạng vừa sản xuất nông nghiệp
trồng lúa nước, hoa màu và trồng cây nguyên liệu.
Xã Kim
Thành có diện tích rừng khá lớn với 1.600 ha, trong đó rừng tự nhiên có 200 ha,
rừng trồng có 1.346,69 ha. Kim Thành trước đây là vùng núi non hiểm yếu, “rừng
thiêng nước độc” với mảng thực vật phong phú gồm nhiều loài gỗ quý như: lim,
táu, dổi, vàng tâm, lát hoa…; nơi sinh sống của nhiều loài động vật quý hiếm
như: khỉ, vượn, voi, hổ, báo, chim, trĩ, gà rừng, lợn rừng, gấu… Ngoài ra, còn
có nhiều loại thuốc như: thiên niên kiện, hà thủ ô, y dĩ, sa nhân… Rừng không
chỉ là nơi cung cấp nguồn thực phẩn (thịt các loài thú), các loại rau, măng
phục vụ hàng ngày cho nhân dân mà rừng ở đây còn có vị trí chiến lược quan
trọng, được một số quan lại các triều đại phong kiến chọn làm nơi đóng quân
như: Đinh Lễ (một vị tướng của Lê Lợi) đã chọn vùng đất Nhà Đũa - Động Đình lập
căn cứ để đánh Thành Trài (Diễn Phong - Diễn Châu)
4. Giao thông
Đường
giao thông xã Kim Thành trước đây đi lại khá khó khăn do ở xa trung tâm huyện.
Đường chủ yếu là các lối mòn nhỏ mèn theo các triền núi, cây cối mọc um tùm sau
được mở rộng. Nhất là từ năm 1962, khi xã viên các hợp tác xã ở Viên Thành,
Nhân Thành, Hợp Thành, Hoa Thành, Long Thành đã lên đây cày trại thành lập các
nông trang thì đường giao thông đi lại được quy hoạch có hệ thống nhưng cũng
chủ yếu là đường đất. Ngày nay, thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới, hệ
thống đường giao thông liên huyện, liên xã, liên xóm được đầu tư mở rộng và bê
tông hóa nhựa hóa. Hiện nay, xã có 4 km Quốc lộ 48E chạy qua, 25,3 km trục
đường chính, 24,09 km đường thôn xóm và 14,25 km đường nội đồng đã được bê tông
hóa. Việc đi lại của nhân dân thuận tiện hơn.
Nhìn
chung Kim Thành là xã miền núi, điều kiện để phát triển kinh tế khó khăn, chỉ
có một số diện tích đất đồi núi thuận lợi cho việc trồng cây nguyên liệu. Nhân
dân đã biết tận dụng và phát huy để tạo ra giá trị kinh tế cao. Hiện nay, nhân
dân bắt đầu thực hiện dự án trồng đào phai trên diện rộng để góp phần xóa đói,
giảm nghèo tiến lên làm giàu chính đáng trên quê hương yêu dấu.
II.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH DÂN CƯ, LÀNG XÓM
1. Tên gọi làng xóm
Xã Kim
Thành trước năm 1945 gồm có ba làng là: Đồng Bản, Trại Quánh và Đũa Sơn thuộc
tổng Quan Hóa. Cuối năm 1945, đầu năm 1946 thực hiện bỏ cấp tổng thành lập
chính quyền 4 cấp, làng Đồng Bản, Trại Quánh, Đũa Sơn thuộc xã Giai Lạc. Cuối
năm 1948, đầu năm 1949, theo chủ trương của Trung ương “tăng cường xã, đơn giản
huyện”, các xã nhỏ nhập thành xã lớn, xã Giai Lạc nhập với xã Phúc Đồng thành
xã Giai Lạc. Cuối năm 1953, đầu năm 1954, xã Giai Lạc được chia thành 3
xã: Hậu Thành, Phúc Thành và Đồng Thành. Các làng Đồng Bản, Ngọc Liên, Nhà Đũa.
2. Quá trình hình thành
Hiện
nay chưa có cứ liệu lịch sử nào xác định thời gian cụ thể con người đến sinh
sống đầu tiên tại vùng đất Kim Thành. Tuy nhiên, theo cuốn “Lịch sử huyện Yên
Thành” viết: Địa hình vùng núi Yên Thành gắn liền với các dãy núi từ Tây Bắc
Nghệ An xuống, có nhiều dãy núi đá vôi, nhiều thung lũng, hang động kín là địa
bàn cư trú của người Việt Cổ (cách ngày này trên 5000 năm). Đó là những cư dân trồng
lúa cuối thời đại đồ đá mới ở vùng đồng bằng ven biển Nghệ Tĩnh. Họ là con cháu
của người vượn ghè đá ở Thẩm Ồm (Quỳ Châu) đến những bộ lạc săn bắt và hái lượm
ở Cồn Điệp (Quỳnh Văn) và là những người Việt Cổ ở Rú Ta - Hai Vai (Diễn
Châu)”.
Bước
sang thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ X - XV, vùng đất Kim Thành đã có người sinh
sống. Theo gia phả họ Hồ ở Kim Thành ghi: năm 1420 có ông Hồ Khuê người ở xã
Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu) - đỗ tú Tài nhưng không ra làm quan mà lui về ở ẩn, ông
đã đến vùng đất Đồng Bản sinh sống sau đó làm nghề dạy học. Hiện nay, họ Hồ ở
Kim Thành đã trải qua 20 đời. Mặt khác, trên núi Động Đình - Nhà Đũa (nơi tướng
Đinh Lễ chọn làm căn cứ chiêu tập binh lính để đánh Thành Trài (Diễn Châu)) còn
có dấu tích của một ngôi đình gồm 6 hòn đá tảng hình vuông (mỗi hòn có chiều
rộng là 0,4 m), trước cửa đền có bia bằng đá cao 1,2m có ghi “Hiến Tông tuế
niên, Tuế thứ Tân Dậu” Trọng thu nguyệt cát nhật dịch là “Đời vua Hiến Tông năm
Tân Dậu thứ 4 - 1505, rằm tháng Tám (Âl)”. Vào thế kỷ XVII, vùng đất Động Đình
còn là nơi đặt căn cứ của tướng công Hà Công Đạt.
Mặt
khác, theo các cụ cao niên kể lại thì ở vùng đất Kim Thành trước đây có một số
hộ người dân tộc Thanh sinh sống trên các đồi cao. Sau này, do điều kiện sinh
hoạt không thuận lợi nên họ đã chuyển sang xã Nghĩa Dũng - Tân Kỳ sống.
Tuy
nhiên, để tạo thành các làng xóm dân cư sinh sống đông đúc thì phải đến đầu thế
kỷ XX, có một số hộ dân họ Hà đứng đầu là ông Hà Khánh từ xã Giai Lạc (Phúc
Thành ngày nay) đã lên đây cày trại sinh sống trên đất của tổ tiên ngày trước.
Tiếp đến những năm 1930 - 1945, nhiều dòng họ từ nhiều nơi đã đến đây sinh sống
lập nên xóm Đồng Bản và Trại Quánh, Đũa Sơn. Dòng dân cư đến Kim Thành nhiều
nhất là từ năm 1962, thực hiện chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới của huyện,
tỉnh, nhân dân các xã đã lên đây cày trại, thành lập các nông trang và thành
lập nhiều xóm mới là Sao Vàng, Đồng Thông, Trại Mắt.
Quá
trình hình thành dân cư cụ thể ở các xóm cụ thể là
Xóm Ngọc Liên
Xóm
Ngọc Liên nằm về phía Tây Nam đường Tăng Lãng, phía Bắc giáp xóm Hồng Liên,
phía Đông giáp xóm Trại Mắt, phía Tây giáp xã Quang Thành, phía Nam giáp đập Vệ
Vừng. Xóm có diện tích tự nhiên là 394,8 ha, 160 hộ, 645 khẩu.
Xóm
Ngọc Liên trước đây có tên gọi là làng Trại Quánh được thành lập từ năm 1930
khi nhân dân dựng trại khai hoang tại cồn đất Quánh. Đến năm 1940, chia thành
xóm Trong và xóm Ngoài. Năm 1945 sau khi giành được chính quyền đổi thành Trung
Liên và Hồng Liên. Năm 1955, thực hiện cải cách ruộng đất, hai xóm nhập thành
một xóm Ngọc Liên.
Người
có công khai phá vùng đất Ngọc Liên đầu tiên là một số hộ dân làng Văn Hội. Nghề
nghiệp chủ yếu của nhân dân trong xóm là sản xuất nông nghiệp và trồng rừng.
Đến tháng 9/2019 sáp nhập với xóm Hồng Liên gọi là xóm Ngọc Liên.
Xóm
Đồng Bản
Xóm
nằm ở phía Bắc xã Kim Thành, phía Đông giáp xóm Sao Vàng, Hợp Khánh, phía Nam
giáp xóm Hồng Liên, Ngọc Liên, phía Tây giáp xã Quang Thành, phía Bắc giáp xóm
Nhà Đũa. Diện tích tự nhiên của xóm là 350 ha, dân số 170 hộ, 710 nhân khẩu.
Người
đến sinh sống ở vùng Đồng Bản đầu tiên là ông Hồ Khuê (làng Quỳnh Đôi - Quỳnh
Lưu) đến năm 1420. Ông đậu tú tài nhưng không ra làm quan mà về quê làm nghề
dạy học. Con cháu họ Hồ ở Kim Thành ngày nay đã có 20 đời. Sau này, có nhiều hộ
dân từ nhiều nơi đến đây sinh sống nhưng đến năm 1935, mới có tên gọi làng Đồng
Bản... Năm 1940, làng có hương lý và được cấp mục triện riêng. Đến cuối năm
1945 sang năm 1946, làng bị dịch tả hoành hành, người làng chết quá nửa, nhiều
hộ dân đã bỏ làng đi tìm nơi sinh sống mới. Chỉ còn gia đình ông Phụ (gốc Văn
Thành), ông Hoàn, ông Tình, ông Nghị (gốc Hợp Thành), ông Cù (gốc Nhân Thành)
bám trụ lại đến năm 1961.
Năm
1961, huyện Yên Thành có chủ trương khai hoang, lập vùng kinh tế mới, xã Hoa Thành
đã được huyện cho phép lập đội thanh niên Tên Lửa đến vùng Đồng Bản cày trại.
Đội đã cắm trại khai hoang ở cánh đồng Dù (bây giờ), đào giếng nước to gọi là
“giếng Thanh niên” (nay giếng vẫn còn). Năm 1962, xã Hoa Thành tiếp tục vận
động xã viên các hợp tác xã đi đến làng Đồng Bản xây dựng nông trang gọi là
nông trang Đồng Bản. Mỗi hợp tác xã đã thành lập được một số đội cày là:
Hợp
tác xã Hoa Thám lập một đội cày trại tại vùng Đồng Bản cũ (lối sân bóng và trạm
điện bấy giờ) gồm 9 hộ.
Hợp
tác xã Đình Phùng lập một đội cày trại ở khu vực Đình Sơn gồm 6 hộ.
Hợp
tác xã Chu Trạc lập một đội cày trại tại vùng đồng Cây Song gồm 8 hộ.
Ngoài
ra, còn có Hợp tác xã Trần Phú (xã Tăng Thành) cũng lập một đội cày trại ở vùng
Khe Gáo gồm 5 hộ và một số hộ đến đây tự do chọn đất cày cấy, không theo sự sắp
đặt của hợp tác xã.
Tháng
02/1963, Huyện Yên Thành có chủ trương lập tổ định cư nên các hợp tác xã vận
động xã viên đi cày trại ở đây ngày một đông. Tính đến năm 1966, tổng số hộ ở
nông trang Đồng Bản có khoảng 40 hộ.
Năm
1967, xã Đồng Thành có chủ trương hợp nhất các nông trang để thành lập hợp tác
xã. Nông trang Đồng Bản hợp với nông trang Sao Vàng thành hợp tác xã Sao Vàng
(lúc này, nông trang Đồng Bản gọi là đội sản xuất số 2), dân số có khoảng 70
hộ, 250 nhân khẩu; có 01 tổ Đảng với 13 đảng viên. Năm 1969, hợp tác xã Sao
Vàng nhập với hợp tác xã Ngọc Liên thành hợp tác xã Kim Liên. Đến năm 1999, khi
chia tách xã, hợp tác xã Kim Liên chia thành các xóm Ngọc Liên, Sao Vàng và
Đồng Bản.
Đây là
nơi các đơn vị quân đội về sơ tán trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Đồng Bản
được coi là trung tâm của xã, nơi đặt trụ sở Ủy ban, trụ sở hợp tác xã nông nghiệp.
Đến tháng 9/2019, sáp nhập với xóm Nhà Đũa gọi là xóm Đồng Bản.
Xóm Hồng Liên
Xóm
Hồng Liên có diện tích tự nhiên là 65 ha, trong đó ½ là đồi núi với 115 hộ, 465
nhân khẩu.
Trước
đây, Hồng Liên là vùng đất hoang vu, cây cối rậm rạp, năm 1963, có 10 hộ gia
đình ở xã Nhân Thành lên đây khai hoang thành lập xóm Đồng Mua thuộc hợp tác xã
Đồng Lền (Đồng Thành lớn). Từ năm 1974 - 1999, xóm Đồng Mua thuộc hợp tác xã
Kim Liên. Đến khi chia tách xã (năm 1999), xóm Đồng Mua thuộc xóm Ngọc Liên.
Năm 2000, xóm Ngọc Liên chia ra làm hai xóm Ngọc Liên và Hồng Liên. Đến tháng
9/2019, hai xóm nhập lại gọi là xóm Ngọc Liên.
Xóm
Hồng Liên nằm ở vị trí chiến lược nên trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, đây là nơi tản cư của nhiều cơ quan, đơn vị đến sơ tán.
Trong xóm có 80% hộ dân đã tham gia nuôi bộ đội thời chống Mỹ 1968 - 1972. Đến
hôm nay, nhân dân Hồng Liên đã giữ dìn và phát huy được tinh thần cách mạng vào
công cuộc xây dựng quê hương.
Xóm Hợp Khánh
Xóm
Hợp Khánh trước đây gọi là vùng Khe Cày vì trên địa bàn xóm có Khe Cày khá lớn.
Cư dân đến đây sinh sống đầu tiên vào năm 1952, khi đó gồm các hộ ông Hoàn, ông
Nghị, ông Lý. Đến năm 1963, có một số hộ dân ở Hợp Thành lên đây xây dựng vùng
kinh tế mới. Năm 1966, một số hộ ở xã Khánh Thành cũng đến đây cày trại. Trước
năm 1999, vùng đất Khe Cày thuộc hợp tác xã Sao Vàng, đến năm 1999, khi chia
tách xã Đồng Thành thành hai xã thì vùng Khe Cày đổi thành xóm Hợp Khánh có
tổng diện tích khoảng 200 ha. Ở trên địa bàn xóm trước đây có một ngôi đền xây
bằng gạch, vôi, lợp ngói vảy gọi là vùng Động Đền nay không còn. Tháng 9/2019
sáp nhập vào xóm Sao Vàng.
Xóm Sao Vàng
Xóm
Sao Vàng tiền thân là nông trang Sao Vàng được thành lập năm 1962, khi một số
cán bộ và đoàn viên thanh niên xã Hợp Thành do ông Vũ Đề đứng đầu đã lên vùng
Động Thị (sở dĩ gọi là Động Thị vì ở đây có nhiều cây thị, có những cây cổ thụ
hai người ôm không xuể) và khoảng 30 hộ dân với 200 khẩu từ dưới xuôi lên đây
để cày trại sinh sống. Đến năm 1965, có thêm một số hộ dân ở Khánh Thành đến
dắm dân, khai hoang ở vùng Khe Cày, Trại Mắt sang Đồng Thông. Đây là một vùng
đất có nhiều lợi thế về đất rừng nên nhân dân đã biết tận dụng để phát triển
kinh tế vườn đồi.
Xóm Đồng Luốc
Đồng
Luốc là xóm ở cuối xã, phía Đông giáp xã Hùng Thành, phía Bắc giáp xã Lăng
Thành, phía Nam giáp xóm Trại Mắt, phía Tây giáp xóm Sao Vàng. Trên địa bàn xã
có nhiều khe suối như: Khe Mài, khe May, khe Giếng, khe Bưởi, nhân dân đã ngăn
thành các đập Luốc, đập Cối để dự trữ nước phục vụ sản xuất.
Trên
địa bàn xã có di tích Đồn Thông là nơi Nguyễn Xuân Ôn đã tổ chức rèn đúc vũ
khí, luyện tập binh lính và chuẩn bị quân lương phục vụ cho cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp.
Từ năm
1965, thực hiện xây dựng các vùng kinh tế mới của huyện, nhân dân Viên Thành,
Khánh Thành đã lên đây xây dựng nông trang gọi là nông trang Đồng Thủy. Đến năm
1974, một số hộ từ lòng hồ Vệ Vừng vào vùng Đồng Luốc khai hoang dần dần lập
thành đội sản xuất số 6 thuộc hợp tác xã Kim Liên. Đến năm 1997 đổi tên là xóm
Đồng Luốc.
Vùng
đất này năm 1962, Ty Nông nghiệp Nghệ An đã đến đây thành lập một trại chăn
nuôi bò nhưng sau đó giải tán. Nghề nghiệp chủ yếu của nhân dân trong xóm hiện
này là sản xuất nông nghiệp và trồng cây nguyên liệu phục vụ cho nhà máy sản
xuất giấy.
Xóm Nhà Đũa (Đũa Sơn)
Xóm
Nhà Đũa trước đây có tên gọi là Đũa Sơn nằm dưới chân núi Động Đình, phía Đông
Bắc và phía Tây Nam giáp huyện Tân Kỳ, phía Đông Nam giáp Làng Cầu (xã Lăng
Thành). Xóm Đũa Sơn được hình thành từ thế kỷ XVI (năm 1550) có khoảng 16 hộ
dân tộc Thanh sinh sống sau này họ chuyển lên vùng Dương Lễ xã Nghĩa Dũng huyện
Tân Kỳ.
Đến
thế kỷ XVIII, có ông Hà Tông Đạt sau khi theo Lê Duy Mật khởi nghĩa thất bại đã
đưa con trai và ba người vợ của mình đến đây ở ẩn, khai khẩn đất đai sinh sống.
Đến thế kỷ XX, một số người dân họ Hà từ làng Yên Trung xã Giai Lạc (nay là
Phúc Thành) đã đến vùng đất Đũa Sơn khai hoang lập nghiệp dẫn đầu là ông Hà Văn
Khánh. Năm 1947, do khí hậu ở vùng này phức tạp, lắm thú dữ nên các hộ dân đã
chuyển về quê cũ (làng Yên Trung) sinh sống. Đến cải cách ruộng đất, có một số
hộ ở xã Lăng Thành, Hậu Thành, Phúc Thành đến đây sinh sống từ đó vùng Đũa Sơn
được gọi là Nhà Đũa. Trước đây, xóm Nhà Đũa thuộc đất xã Phúc Thành nhưng sau
này chia tách xã Phúc Thành ra thành các xã nhỏ thì xóm Nhà Đũa thuộc xã Đồng
Thành (nay là Tân Thành).
Là
vùng đất rộng, có nhiều đồi núi, đồng cỏ nên trong giai đoạn đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đây là nơi được chọn đặt các trại chăn nuôi. Cụ thể: năm 1962,
Tỉnh Nghệ An đã lập 5 trại chăn nuôi bò nhưng sau đó chuyển về xã Hạnh Sơn
(huyện Anh Sơn); năm 1968, tỉnh Nghệ An đã thành lập lâm trường Yên Quỳnh đến
năm 1972, nông trường Yên Quỳnh rút khỏi vùng Nhà Đũa về đóng tại xã Quỳnh Tam
(Quỳnh Lưu). Năm 1973, tỉnh Nghệ An chuyển Công ty ong đến đây nhưng đến năm
1975 rút về (năm 1978, quay trở lại lần 2). Cùng thời gian này, xã Hậu Thành đã
lên đây lập một trại bò nhưng sau một thời gian cả công ty ong và trại bò của
xã Hậu Thành đều giải thể. Năm 2004, tổng đội thanh niên xung phong của tỉnh
lên đây xây dựng vùng kinh tế mới, một số hộ dân sáp nhập vào tổng đội, một số
hộ khác sáp nhập về xã Lăng Thành. Tháng 4/2009, xóm Nhà Đũa sáp nhập vào xã
Kim Thành. Tháng 9/2019, xóm Nhà Đũa sáp nhập vào xóm Đồng Bản gọi là xóm Đồng
Bản.
Đây là
khu vực tách biệt với trung tâm xã (từ trung tâm xã vào xóm khoảng 10 km) đường
giao thông đi lại khó khăn. Tuy nhiên, là vùng đất có lịch sử lâu đời ở Kim
Thành, nơi đây có nhiều công trình đền miến như: Đền Cây Thông (đền Động Đình)
được xây dựng thời Lê khoảng năm 1424 - 1425 nay đã được nhân dân tu tạo lại
khang trang, đền thờ tại cổng ông Vệ, đền tại khu vực Cây Thị, đền thờ sau nhà
anh Trần Văn Hùng, đền tại nhà anh Hòa, đền phía dưới hội quán ngày nay, đền
Đập Đồn ở hồ Cây Gạo. Các ngôi đền này nay không còn, chỉ còn một số bia đá và
dấu tích đền cũ.
Xóm Trại Mắt
Xóm
Trại Mặt có địa hình tương đối độc lập với các xóm khác, xung quanh là rừng,
đồi núi, ở giữa là thung lũng, đồng ruộng. Phía Đông giáp xã Phúc Thành, Đồng
Thành, phía Tây giáp xóm Hồng Liên, phía Bắc giáp xóm Sao Vàng, phía Nam giáp
xã Đồng Thành. Xóm có tổng diện tích là 322,4 ha. Trên địa bàn xóm có Quốc lộ
48E chạy qua.
Xóm
Trại Mắt có vị trí chiến lược quan trọng, xung quanh được bao bọc bởi núi cao
từ dãy núi Áo Xanh (phía Đông Nam) kéo xuống động Hố Su, động Hố Ná, Hố Quýt vì
thế nơi đây được nhiều tướng lĩnh chọn làm nơi đóng quân. Theo lời các cụ cao
niên kể lại vào thế kỷ XV, tướng Đinh Lễ (một vị tướng của Lê Lợi) đã chọn vùng
đất Đũa Sơn (Nhà Đũa) lấy Động Đình làm đại bản doanh và tuyển thêm binh lính,
xây dựng lực lượng, tổ chức luyện tập để chuẩn bị đánh Thành Trài (Diễn Phong -
Diễn Châu). Sau này có tướng công Hà Công Đạt (quan thần nhà Lê) làm quan Trung
Thuận - Trấn Ninh (nay gồm Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ) thuộc tổng
Quan Hóa gặp thời loạn lạc đã theo tướng Lê Duy Mật vào Nghệ An xây dựng căn cứ
chống chúa Trịnh ở đàng trong. Khi cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật bị thất bại
ông Hà Tông Đạt đã cùng con trai và 3 người vợ của mình về vùng Trại Mặt ở ẩn.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một số hộ dân họ Hà đứng đầu là ông Hà
Khánh ở xã Giai Lạc (nay là xã Phúc Thành) đã lên sinh sống tại đây. Theo lời
kể của ông Hà Công Tải con trai ông Hà Khánh kể lại tại vùng Nhà Đũa trước đây
đã dựng miếu thờ tổ tiên, dựng đền Cả, đền Quan Phủ và chùa Lộ Thiên. Nay các
di tích này không còn nữa, chỉ còn lại ngôi môt tổ họ Hà.
Tuy là
vùng có con người đến sinh sống sớm nhưng do điều kiện núi rừng hiểm trở, tách
biệt với các vùng khác, đồng ruộng để cày cấy ít nên các hộ dân đã đi nơi khác
sống hoặc trở về quê cũ. Mãi đến năm 1960, vùng đất này mới có con người đến
cày trại, sinh sống tiếp, nhưng sau một thời gian do dịch bệnh nên họ đã bỏ về
quê cũ hoặc sang trại Quánh. Năm 1966, có 19 hộ từ làng Văn Trai (xã Long
Thành) lên đây khai hoang thành lập hợp tác xã Đồng Văn; năm 1969, nhập vào hợp
tác xã Kim Liên, gọi là đội sản xuất số 5. Năm 1982, cắt một số hộ cuối đội
chuyển sang xóm Đồng Thông thành lập đội 8 (thời gian này đội 5 chuyển thành
đội 9). Năm 1990, đội 9 sáp nhập với một số hộ đội 8 tách ra trước đây thành
xóm Trại Mắt. Lúc này, xóm có 95 hộ, 420 khẩu, 9 đảng viên.
Xóm
Trại Mắt được hình thành trên cơ sở dân cư từ nhiều nơi như: Long Thành, Nhân
Thành, Hợp Thành về đây sinh sống. Nghề nghiệp chủ yếu của nhân dân là sản xuất
nông nghiệp. Qua lao động họ đã hình thành nên các giá trị văn hóa vật chất và
tinh thần phong phú. Trước đây, trên địa bàn xã có ngôi đền thờ thành Hoàng
làng nhưng nay đã bị đổ nát, còn nền đất cũ. Hiện nay, xóm được công nhận là
đơn vị văn hóa cấp huyện.
Có thể
thấy rằng việc hình thành các làng xóm ở Kim Thành là một quá trình lâu dài với
nhiều dòng họ khác nhau trong huyện đến đây lấn núi, bạt rừng sinh sống. Họ đã
tạo nên các đồng ruộng trồng lúa, trồng màu và các điểm tụ cư đông đúc. Nhân
dân nơi đây còn biết ngăn các dòng chảy của khe thành các hồ đập dự trữ nước.
Mặt khác, người dân còn xây dựng được các công trình văn hóa tâm linh như: đền,
miếu nhưng hiện nay hầu như đã hư hỏng, chỉ còn lại phế tích.